Những lỗi sai phát âm của người Việt theo nghiên cứu của Cambridge | Ứng dụng vào việc học và dạy Speaking
Học phát âm chính xác âm vị là một phần quan trọng trong việc học tiếng Anh nói chung và nâng cao điểm Speaking nói riêng. Trong quá trình học, việc học chi tiết và đầy đủ tất cả âm vị sẽ là tương đối khó khăn và việc tập trung học những âm vị mà người học dễ phát âm sai được xem là một phải pháp cực kỳ hiệu quả về mặt thời gian.
Bài viết này sẽ điểm qua các lỗi sai phát âm bao gồm lỗi sai nguyên âm, nguyên âm đôi, phụ âm, các vấn đề về chùm phụ âm, âm điệu, dấu nhấn và nhịp điệu. Đồng thời bài viết cũng sẽ đề xuất các lý do và cách giải quyết cho các lỗi sai này.
Key Takeaways |
---|
Người học Việt Nam thường gặp rắc rối với các nguyên âm sau:
Về phụ âm (Consonants):
Về chùm phụ âm, Sally Mellers rút ra nhận xét
Về ngữ điệu (intonation)
Dấu nhấn và nhịp điệu (Stress and Rhythm)
|
Tầm quan trọng của âm vị
Trong tiếng Anh, kỹ năng Speaking đóng vai trò rất quan trọng và được đánh giá cao trong các kỳ thi quốc tế như IELTS. Tuy nhiên, để đạt được điểm cao trong kỹ năng Speaking và bài thi IELTS Speaking, việc phát âm âm vị chính xác cũng là một yếu tố quan trọng.
Âm vị là các đơn vị cơ bản nhất của ngôn ngữ, tạo thành từng âm trong mỗi từ, và việc phát âm chính xác các âm vị sẽ giúp người học nói được một cách tự nhiên và chính xác. Việc phát âm không chính xác các âm vị có thể dẫn đến những sự hiểu lầm và gây khó khăn cho người nghe. Các khó khăn thường gặp khi học phát âm âm vị bao gồm khó khăn trong việc phân biệt các âm vị tương đồng và khó khăn trong việc phát âm âm vị trong từ khi kết hợp với nhau.
Phần phát âm được đánh giá là một trong 4 tiêu chí chính thức khi chấm điểm Speaking trong kỳ thi IELTS. Trong IELTS Speaking, các giám khảo sẽ đánh giá khả năng của người thi phát âm các từ và câu một cách chính xác và dễ hiểu. Phát âm âm vị không chính xác có thể ảnh hưởng đến điểm phát âm và đến tổng điểm của bài thi.
Để nâng cao kỹ năng phát âm âm vị, người học cần luyện tập phát âm từng âm một một cách chính xác. Tuy nhiên, việc học đầy đủ 44 âm vị và đặc biệt trong các khóa học ngắn ngày là một điều tương đối khó đạt được.
Một phương án tối ưu đó là người học dành thời gian luyện tập các âm vị mà thường bị phát âm sai. Nhưng câu hỏi đặt ra là làm sao để biết âm vị nào thường bị phát âm sai, khi mà đặc điểm này thực sự khác nhau giữa người học từ các quốc gia khác nhau. Theo nhiều nghiên cứu, ngôn ngữ mẹ đẻ có ảnh hưởng lớn đến kỹ năng phát âm của người học tiếng Anh, và người học, những người có ngôn ngữ mẹ đẻ khác với tiếng Anh, thường không phát âm chính xác các từ có chứa các âm vị mà trong ngôn ngữ mẹ đẻ của họ không có. (Flores and Rosa, 2015; Best and Tyler, 2007).
Để xác định cụ thể âm vị nào mà người học Việt Nam thường phát âm sai để tập trung cải thiện, ta có thể xem kết quả nghiên cứu của đại học Cambridge dưới đây.
Nghiên cứu của Cambridge về kỹ năng Speaking
Theo nội dung sách Sheep or Ship từ nhà xuất bản Trường Đại Học Cambridge, nhà nghiên cứu Sally Mellers đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra kết quả về các lỗi sai phổ biến của người học Việt Nam, và dưới đây là kết quả tóm lược của nghiên cứu này.
Về Nguyên Âm (Vowels) và Nguyên Âm Đôi (Diphthongs)
Người học Việt Nam thường gặp rắc rối với các nguyên âm sau:
i (ship) bị nhầm lẫn với iː (sheep) or e (pen)
æ (man) bị nhầm lẫn với ʌ (cup)
ʊ (book) bị nhầm lẫn với uː (boot)
ɒ (clock) bị nhầm lẫn với ɔː (ball)
ɜː (girl) thường đọc sai thành ɔː (ball)
eɪ (tail) thường đọc sai thành e (pen)
əʊ (phone) thường đọc sai thành ɔː (ball)
Tham khảo thêm: Các nguyên âm và phụ âm trong tiếng Anh | Định nghĩa và Phân loại
Về phụ âm (Consonants):
θ (thin) thường đọc sai thành t
ð (feather) thường đọc sai thành d
f bị nhầm lẫn với p
p thường đọc sai thành b
l thường đọc sai thành n
ŋ (ring) thường đọc sai thành nk
r thường đọc sai thành z
d (jam) thường đọc sai thành (television)
tʃ (cherry) đôi khi còn bị nhầm lẫn với t or ʃ (shoe)
ʃ (shoe) thường đọc sai thành s
z đọc sai thành s ở vị trí cuối
s có thể bị bỏ qua hoặc đọc thành t ở vị trí cuối
Về chùm phụ âm, Sally Mellers rút ra nhận xét
“Gặp khó khăn lớn với chùm phụ âm, đặc biệt là ở vị trí cuối, khi mà một hoặc nhiều phụ âm có thể sẽ bị bỏ qua. Đôi khi một phụ âm cuối sẽ bị thay thể bởi /t/ hay ʃ (shoe)
Great difficulty with groups of consonants especially finally where one or more may be dropped. Sometimes a final consonant will be replaced by t or ʃ (shoe).
Tất cả bài tập về ngữ điệu trong sách Ship or Sheep đều sẽ có ích cho người học ở Việt Nam.
Dấu nhấn và nhịp điệu (Stress and Rhythm)
Người học Việt Nam được cho rằng nói tiếng Anh nghe “ngắt quãng” hay các từ bị tách biệt nhau.Các bài tập về việc nối các từ với nhau và bài tập về dấu nhấn và nhịp điệu đều sẽ hữu ích.
Rõ ràng một nghiên cứu mang tính giáo dục như nghiên cứu trên sẽ đem lại rất nhiều ích lợi cho không chỉ người học mà còn cho các nhà giáo dục. Phần tiếp theo sẽ tìm hiểu về cách mà người học và người giáo viên có thể tận dụng được kết quả nghiên cứu này.
Ảnh: các lỗi sai phát âm thường gặp của người học Việt Nam (Nguồn: Cambridge)
Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc học và dạy Speaking
Lợi ích rõ ràng nhất đó là người học và người dạy sẽ biết cần phải tập trung vào những âm tiết hay đặc điểm phát âm nào khi học và dạy.
Phần tiếp theo bài viết sẽ phân tích từng lỗi sai dựa trên kinh nghiệm cá nhân của tác giả bài viết và cung cấp cách mà người học và các giáo viên có thể áp dụng dụng để tránh lỗi trong quá trình dạy và học các âm vị này.
Nguyên âm
i (ship) bị nhầm lẫn với iː (sheep) or e (pen)
Nguyên âm /i/, hay còn gọi là nguyên âm i ngắn, thực tế có độ dài phát âm ngắn hơn các nguyên âm ở tiếng Việt. Do đó, khi người học phát âm với độ dài giống như nguyên âm i/y của tiếng Việt, sẽ tạo ra âm vị có độ dài gần giống với /i:/.
Khi dạy nguyên âm này, có thể hướng dẫn người học đặt lưỡi thụt vào trong một chút so với khi đọc chữ cái i, để tạo ra một âm tiết giống hơn với chữ cái ‘ê’ và phát âm ngắn hơn so với các nguyên âm tiếng Việt.
ɒ (clock) bị nhầm lẫn với ɔː (ball)
Sự nhầm lẫn giữa hai nguyên âm này phần lớn cũng đến tự độ dài nguyên âm tương tự như hai âm vị phía trên.
æ (man) bị nhầm lẫn với ʌ (cup)
Âm vị /æ/ thường gây ra nhầm lẫn do không có cách đọc tương đương trong tiếng Việt. Do đó, người học thường đọc theo bản năng nếu không học âm vị kỹ càng. Sự khác nhau giữa hai âm này là vị trí và cách phát âm của chúng. Âm /æ/ được phát âm bằng cách đưa lưỡi xuống phía dưới của răng trên và thụt hông lưỡi ra phía trước, trong khi đó âm /^/ được phát âm bằng cách đưa môi vào vị trí hơi cong hình tròn và đưa lưỡi lên cao hơn ở phía trước.
ʊ (book) bị nhầm lẫn với uː (boot)
Âm vị /ʊ/ cũng thường bị người học phát âm giống với chữ cái u ở tiếng Việt, khi đó, người học phát âm dài hơn mong đợi và cũng đặt khẩu hình miệng giống với chữ cái u ở tiếng Việt, vốn cũng là cách để phát âm nguyên âm dài /uː/. Sự khác biệt giữa hai nguyên này chủ yếu đến từ độ dài của nguyên âm. Do đó, để sửa lỗi này, người giáo viên cần lưu ý về độ dài âm khi phát âm của học viên.
Giáo viên cũng cần chỉ rõ một số từ vựng đi với nguyên âm /ʊ/ để người học chú ý hơn khi phát âm. Ví dụ: took, good, put, bush, wolf, woman, would, should.
ɜː (girl) thường đọc sai thành ɔː (ball)
Sự nhầm lẫn giữa hai nguyên âm này phần lớn đến từ việc lần đầu tiếp xúc với hai âm vị người học không được phân biệt rõ ràng giữa hai âm này.
eɪ (tail) thường đọc sai thành e (pen)
Sự nhầm lẫn giữa hai âm vị này phần lớn gây ra bởi thổ ngữ, phương ngữ ở một số địa phương như Quảng Nam, Quảng Ngãi.
əʊ (phone) thường đọc sai thành ɔː (ball)
Sự nhầm lẫn giữa hai âm vị này phần lớn do người học không quen với sự phát âm một nguyên âm đôi mà không có trong tiếng Việt như /əʊ/. Khi đó, họ sẽ chọn cách phát âm gần giống nhất mà họ biết. Phần lớn người học chọn cách phát âm là /ɔː/. Ví dụ thay vì đọc từ phone là [phơ-ừn] thì họ sẽ có xu hướng đọc là [phôn].
Phụ âm
Về phụ âm (Consonants):
θ (thin) thường đọc sai thành t và ð (feather) thường đọc sai thành d
Lý do cho lỗi sai này đến từ việc hai phụ âm này là đặc trưng của tiếng Anh và không có trong tiếng Việt. Do đó người học sẽ tìm cách quen thuộc để phát âm hai nguyên âm này lần lượt là /t/ và /d/. Một số người học phát âm âm /θ/ bằng âm ‘th’ của tiếng Việt, nhưng nó lại giống với âm /t/ bật hơi của tiếng Anh, do đó, khi dạy và học cần làm rõ sự khác biệt của các âm này.
ŋ (ring) thường đọc sai thành /nk/
Lý do cho lỗi sai này một phần đến từ việc âm /ŋ/ của tiếng Anh không có trong tiếng Việt và ở tiếng Việt tồn tại một âm vị gần giống là âm của chữ “ng”. Đây được xem như phát âm chưa chính xác và ảnh hưởng đến khả năng phát âm của người thi. Khi học âm vị này, người dạy và học cần làm rõ sự khác biệt.
p thường đọc sai thành b
Tương tự như hai lỗi trên, lỗi sai này đến từ việc âm /p/ trong tiếng Anh không có âm tương ứng hoàn toàn trong tiếng Việt. Âm /p/ là âm vô thanh bật bơi, nhưng khi phát âm người học sẽ chọn cách thoải mái với họ, là âm của chữ “b” nếu không được làm rõ sự khác biệt.
dʒ (jam) thường đọc sai thành ʒ (television)
Tương tự như hai lỗi trên, lỗi sai này đến từ việc âm /dʒ/ trong tiếng Anh không có âm tương ứng hoàn toàn trong tiếng Việt. Khi phát âm người học sẽ chọn cách thoải mái với họ, đó là âm của chữ “d” hoặc “gi” trong tiếng Việt, nếu không được làm rõ sự khác biệt.
tʃ (cherry) đôi khi còn bị nhầm lẫn với t or ʃ (shoe)
Tương tự như /dʒ/ thì âm /tʃ/ cũng có thể bị phát âm sai thành âm khác như /t/ hoặc /ʃ/.
l thường đọc sai thành n; r thường đọc sai thành z; và f bị nhầm lẫn với p
Lý do cho các lỗi sai này có thể đến từ phương ngữ ở một số vùng miền.
ʃ (shoe) thường đọc sai thành s
lỗi sai này đến từ việc âm /ʃ/ trong tiếng Anh không có âm tương ứng hoàn toàn trong tiếng Việt. Khi phát âm người học sẽ chọn cách thoải mái với họ, đó là âm của chữ “s” trong tiếng Việt, nếu không được làm rõ sự khác biệt.
/s/ có thể bị bỏ qua hoặc đọc thành t ở vị trí cuối
Lỗi sai này đến từ việc người học không phát âm đầy đủ do quên, hoặc do họ không phát âm được tốt khi có nhiều phụ âm sát nhau ở vị trí cuối âm tiết. Khi họ quên không phát âm thì họ kết thúc các danh từ số nhiều hoặc các động từ kết thúc bằng âm /ts/ thành âm /t/, và do đó người nghe có thể hiểu nhầm thành người đọc phát âm sai từ /s/ thành /t/.
/z/ đọc sai thành s ở vị trí cuối
Lỗi sai này một phần đến từ việc người học không nắm được khi nào thì chữ cái “s” ở cuối được phát âm là /s/ và khi nào là /z/. Họ sẽ chọn cách quen thuộc với họ hơn là /s/.
Chùm phụ âm, ngữ điệu và dấu nhấn
Về chùm phụ âm, Mellers rút ra nhận xét người học Việt Nam “Gặp khó khăn lớn với chùm phụ âm, đặc biệt là ở vị trí cuối, khi mà một hoặc nhiều phụ âm có thể sẽ bị bỏ qua. Đôi khi một phụ âm cuối sẽ bị thay thể bởi /t/ hay ʃ (shoe). Do đó, người dạy cần luyện tập và khuyến khích người học phát âm chính xác và đầy đủ các chùm phụ âm khi họ học.
Việc phát âm tốt chùm phụ âm ở vị trí cuối sẽ liên quan đến việc học phát âm ‘ed’ và ‘s/es’ ở cuối từ. Người học cần được khuyến khích phát âm đầy đủ và chính xác các chùm phụ âm này.
Về ngữ điệu (intonation), Mellers cho rằng tất cả bài tập về ngữ điệu trong sách Ship or Sheep đều sẽ có ích cho người học ở Việt Nam. Các hoạt động về luyện tập ngữ điệu đã được đề cập ở bài viết này: https://zim.vn/intonation-la-gi
Về Dấu nhấn và nhịp điệu (Stress and Rhythm), người học Việt Nam được cho rằng nói tiếng Anh nghe hơi “ngắt quãng” hay các từ bị tách biệt nhau. Các bài tập về việc nối các từ với nhau và bài tập về dấu nhấn và nhịp điệu trong sách Sheep or Ship đều sẽ hữu ích. Đây sẽ là phần nội dung cho phần tiếp theo của bài viết này.
Tổng kết
Bài viết đã điểm qua các lỗi sai đặc thù của người học Việt Nam trích từ một nghiên cứu của Sally Mellers từ Cambridge. Đồng thời các giải pháp phù hợp cho việc dạy và học cũng đã được đề xuất. Việc hiểu và khắc phục các lỗi sai thường gặp trong quá trình học tiếng Anh là rất quan trọng để nâng cao kỹ năng ngôn ngữ của mình. Vì vậy, thông qua việc nghiên cứu các lỗi sai đặc thù của người học Việt Nam và đề xuất giải pháp phù hợp, hy vọng bài viết này có thể giúp các giáo viên và học viên hiểu rõ hơn về những khó khăn trong quá trình học tiếng Anh và tìm ra những cách giải quyết hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc áp dụng những giải pháp và kỹ thuật học tiếng Anh mới và hiệu quả sẽ giúp cho việc học tiếng Anh của các bạn trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn. Hy vọng bài viết này có thể giúp các bạn học tiếng Anh tìm ra những phương pháp học tập và luyện tập phù hợp nhất để đạt được mục tiêu của mình.
Work Cited
Best, C. T., & Tyler, M. D. (2007). Non-native and second-language speech perception: Commonalities and complementarities. In O. S. Bohn & M. J. Munro (Eds.), Language Experience in Second Language Speech Learning: In honor of James Emil Flege (pp. 13-34). John Benjamins Publishing.
Flores, C., & Rosa, E. (2015). The Influence of L1 on L2 English Pronunciation. The Journal of Linguistics and Language Teaching, 6(1), 79-97.
Mellers, S. "List of likely errors: Vietnamese speakers." Cambridge University Press & Assessment, www.cambridge.org/files/7813/8080/2520/ship-or-sheep3-intermediate-vietnamese-likely-errors-pedagogy.pdf.
Bình luận - Hỏi đáp